29/04/2022 05:03
Tỉnh Trà Vinh sau khi được tái lập, tình hình kinh tế - xã hội gặp rất nhiều khó khăn, là một trong những tỉnh nghèo nhất đồng bằng sông Cửu Long, kinh tế thuần nông, sản xuất công nghiệp nhỏ bé, thương mại và dịch vụ kém phát triển; điểm xuất phát về kinh tế - xã hội thấp.
Trước những khó khăn, thách thức, Đảng bộ tỉnh Trà Vinh triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đề ra chủ trương đúng đắn, toàn diện, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, tạo được sự thống nhất cao trong nội bộ và đồng thuận trong Nhân dân, phát huy truyền thống cách mạng, truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, khai thác hiệu quả tiềm năng về đất đai, tài nguyên và nguồn lực của tỉnh, tranh thủ sự chỉ đạo của Trung ương, của các tỉnh, thành bạn, từng bước đưa Trà Vinh phát triển cùng với các tỉnh, thành trong khu vực và cả nước.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết tháng 01/2022.
Sau 30 năm tái lập, tỉnh Trà Vinh có bước phát triển tích cực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Hệ thống chính trị không ngừng được củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Hệ thống tổ chức cơ sở Đảng phát triển nhanh, chất lượng, hiệu quả hoạt động nâng lên. Năm 1992, toàn tỉnh có 349 tổ chức cơ sở Đảng, đến nay tăng lên 502 tổ chức cơ sở Đảng, những ấp, khóm có đồng bào Khmer (từ 05% trở lên) đều có đảng viên Khmer, 100% ấp, khóm đều có đảng viên nữ. Cũng vào năm 1992, toàn Đảng bộ có 9.800 đảng viên (chiếm 1,03% dân số), đến cuối năm 2021, Đảng bộ tỉnh có 46.214 đảng viên (chiếm 4,57% dân số).
Công tác bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng viên hàng năm đều đạt và vượt so với nghị quyết đề ra, đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng trưởng thành và lớn mạnh. Năm 1992, có gần 1.800 cán bộ, công chức, viên chức có trình độ đại học, cao đẳng trở lên. Trong 30 năm, đưa đi đào tạo, bồi dưỡng 141.038 lượt cán bộ, có 88 cán bộ được đưa đi đào tạo ở nước ngoài, đến năm 2021, có 18.600 cán bộ, công chức, viên chức có trình độ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có 73 tiến sĩ, 1.459 thạc sĩ.
Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm xây dựng hệ thống chính trị trong vùng đồng bào Khmer. Năm 1992, đảng viên là người Khmer chỉ có 667 đồng chí chiếm khoảng 6,74% tổng số đảng viên của Đảng bộ, đến nay có 7.506 đảng viên dân tộc Khmer, chiếm 16,74% trong tổng số đảng viên toàn tỉnh; cán bộ Khmer được đào tạo, đề bạt và bố trí công tác ở các ngành, các cấp ngày càng nhiều.
Kinh tế tỉnh Trà Vinh 30 năm qua luôn phát triển, giá trị tổng sản phẩm nội địa (GRDP) tăng bình quân hàng năm trên 11,5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng giá trị nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2021 đạt 63,15 triệu đồng/năm, tăng 60% so với 05 năm trước và tăng 86 lần so năm 1992 (năm 1992 thu nhập bình quân 730.000 đồng/năm).
Mô hình trồng bưởi da xanh hiệu quả kinh tế cao.
Đến cuối năm 2020, hoàn thành mục tiêu XDNTM giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ xã nông thôn mới chiếm 81,17% (nghị quyết là 50%). Năm 2021, các chỉ tiêu về XDNTM đều đạt và vượt, có thêm 08 xã đạt 19/19 tiêu chí, 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (đạt chỉ tiêu nghị quyết), đến nay có 77 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 21 xã đạt nông thôn mới nâng cao; có 06 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ XDNTM.
Chăm sóc tuyến đường hoa góp phần XDNTM.
Nông dân Càng Long thu hoạch lác.
Những năm đầu tái lập tỉnh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh còn rất yếu, giao thông, thủy lợi chưa đồng bộ, các trục lộ chính từ tỉnh đi các huyện thường bị gián đoạn, đi lại rất khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Qua 30 năm, hệ thống giao thông đường bộ phát triển nhanh và ngày càng được hoàn thiện, từ chỗ toàn tỉnh chỉ có 02 tuyến Quốc lộ 53 và 60 với chiều dài 37km; có 04 tỉnh lộ với tổng chiều dài 126km, trong đó chỉ có 21km đường nhựa, còn lại là đường đá cấp phối, đất, tất cả các tuyến hương lộ đều là đường đất thì đến nay toàn tỉnh có 04 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài trên 271km, 05 tỉnh lộ với tổng chiều dài trên 225km, 42 hương lộ với tổng chiều dài trên 481km, 100% các tuyến tỉnh lộ, hương lộ đều được nhựa hóa; các tuyến đường trục xã, liên xã được nhựa hóa trên 97%; đường trục ấp, liên ấp được nhựa hóa, bê-tông hóa trên 66%; đường trục chính nội đồng được cứng hóa trên 59%, trên 96% tổng số xã đạt tiêu chí về giao thông nông thôn.
Đường nông thôn mới xã Phương Thạnh, huyện Càng Long.
Những năm đầu sau ngày tái lập tỉnh, tỷ lệ người mù chữ cao, tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp học hơn 6,5%; tỷ lệ tốt nghiệp chỉ đạt 7,97%. Tỉnh đã chỉ đạo thực hiện công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, từ đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển. Cuối năm 2021 có 147/405 trường đạt chuẩn quốc gia; hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp trên 95%, học sinh lớp 5 được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học và học sinh lớp 9 được công nhận tốt nghiệp THCS đạt trên 98%, học sinh lớp 12 tốt nghiệp THPT đạt trên 96%; năm 2021, tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi bậc tiểu học đạt 99,9%, THCS 98,6%...
Cuối năm 2021, Trà Vinh có 147/405 trường đạt chuẩn quốc gia.
Năm 1992, toàn tỉnh có 91 cơ sở y tế công lập với 960 giường bệnh, đạt 10,61 giường bệnh/vạn dân. Đa số cơ sở khám, chữa bệnh xuống cấp trầm trọng, phương tiện phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh thiếu, lạc hậu, hư hỏng nhiều. Đến cuối năm 2021, 100% xã trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 100% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc; chất lượng khám chữa bệnh, dịch vụ y tế được nâng lên, đảm bảo điều kiện chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân.
Chính sách dân số, gia đình và trẻ em được các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung chỉ đạo thực hiện, đạt kết quả tốt trên nhiều mặt; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 05 tuổi giảm từ 46% năm 1992 xuống còn 5,3% năm 2021; tỷ lệ trẻ được tiêm chủng mở rộng hàng năm đạt từ 98% trở lên.
Chất lượng khám chữa bệnh, dịch vụ y tế được nâng lên, đảm bảo điều kiện chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân.
Sau khi tái lập tỉnh, Trà Vinh có gần 20% hộ đói, 40% hộ nghèo; đến nay, Trà Vinh không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới có 10.207 hộ, chiếm 3,56% so với tổng số hộ dân cư; 17.215 hộ cận nghèo, chiếm 06% so với tổng số hộ dân cư; hộ nghèo dân tộc Khmer có 6.483 hộ, chiếm 7,19% so với hộ dân tộc Khmer; các chính sách hỗ trợ, đào tạo lao động đạt được nhiều kết quả, tỷ lệ lao động được đào tạo từng bước được nâng lên, kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 06% năm 1992 xuống còn 02% vào năm 2021. Kinh tế - xã hội trong vùng có đông đồng bào Khmer phát triển, đời sống được nâng lên, kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer từ trên 50% vào năm 1992 xuống còn 7,19% vào cuối năm 2021.
Những thành tựu to lớn đạt được sau 30 năm tái lập, đổi mới và phát triển là kết quả của sự vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước vào điều kiện thực tiễn của Trà Vinh, cùng với tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, quyết tâm phấn đấu vươn lên của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Phó Bí thư Tỉnh ủy Lâm Minh Đằng tặng quà cho hộ nghèo huyện Càng Long năm 2021.
Trước thời cơ, vận hội mới, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Trà Vinh tiếp tục giữ gìn đoàn kết thống nhất thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ XI nhiệm kỳ 2020 - 2025; phấn đấu Trà Vinh đạt chuẩn NTM trước năm 2025, là tỉnh phát triển trong nhóm đầu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long trước năm 2030, góp phần cùng cả nước xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bài, ảnh: KIM LOAN
Tật khúc xạ gồm cận, viễn, loạn thị là rối loạn về mắt thường gặp ở người trẻ. Ước tính khoảng 3 triệu trẻ mắc tật khúc xạ, trong đó tỷ lệ trẻ mắc khúc xạ ở các thành phố lớn 50-70%, chủ yếu là cận thị. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng dự báo tỷ lệ cận thị của trẻ em châu Á, trong đó có Việt Nam ngày càng tăng, khoảng 80-90% vào năm 2050.