30/08/2023 17:03
Ngày 29/8, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam phối hợp với Bộ KH&CN tổ chức Hội thảo “Đánh giá tình hình thiên tai khu vực Tây Nguyên, ĐBSCL và lãnh thổ Việt Nam, đề xuất các giải pháp phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại”.
Nêu tình trạng sạt lở sông, biển ở vùng ĐBSCL, GS.TS Trần Đình Hoà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam - Chủ nhiệm Chương trình KC08/21-30 (Chương trình Nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu) cho biết, tình trạng sạt lở hệ thống sông rạch, xói lở bờ biển đang diễn ra trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng với mức độ ngày càng trầm trọng và phức tạp hơn, gia tăng cả về phạm vi và cường độ.
Đến thời điểm hiện tại trên địa bàn 13 tỉnh khu vực ĐBSCL có tổng 596 vị trí sạt lở bờ sông, bờ biển với chiều dài hơn 804.4 km (bờ sông 548 điểm/582.7km, bờ biển là 48 điểm/221.7km).
Tổng số điểm sạt lở của 3 tỉnh Cà mau, Kiên Giang, Tiền Giang chiếm gần 30% trên tổng số điểm sạt lở thống kê được tại 13 tỉnh ĐBSCL.
GS.TS Trần Đình Hòa cho rằng, xem xét thực tế hiện nay trên toàn lưu vực, vấn đề sạt lở đất trên hệ thống sông, kênh, bờ biển ở ĐBSCL là xu thế không thể đảo ngược.
Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, ĐBSCL là một trong những đồng bằng phù sa non trẻ nhất trên thế giới. Vì vậy, sự ổn định của nền địa chất rất hạn chế. Tầng đất mặt chủ yếu là đất phù sa dạng mùn, được hình thành từ lớp thực bì rất dày bị phân hủy. Ở các khu vực ven sông là dải phù sa ngọt tơi xốp trong khi càng ra phía biển là vùng đất giồng, cấu tạo chủ yếu là đất cát pha với độ kết dính giảm dần.
Chính vì đặc tính như trên nên nhìn chung, khả năng tan rã tự nhiên của tầng đất mặt ở ĐBSCL rất cao, độ cố kết và đàn hồi chịu đựng trước tác động của dòng chảy là rất hạn chế.
Hơn nữa, sự ấm lên toàn cầu làm mực nước biển dâng trong khi nhiệt độ gia tăng lại khiến cho các dòng hải lưu bị biến đổi về phạm vi và cường độ di chuyển. Sự gia tăng lưu lượng nước biển do băng tan đã làm gia tăng lưu lượng và năng lượng dòng triều tác động vào bờ biển khi di chuyển. Trong bối cảnh này, sự tiếp xúc của các dòng hải lưu ven bờ tất yếu tạo ra những áp lực lớn vào thành bờ đưa đến sự bào mòn với quy mô lớn.
Vì vậy, đặc điểm địa chất non trẻ và đường bờ biển lồi lõm theo hướng đi của dòng biển, đã lý giải vùng cửa sông và ven biển từ Tiền Giang đến Mũi Cà Mau là nơi xâm thực của sóng biển.
Ngoài ra, vấn đề khai thác cát quá mức trên các dòng sông có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề sạt lở đất trên hệ thống sông, biển.
Đưa ra giải pháp bảo vệ bờ sông, biển, GS.TS Trần Đình Hoà cho rằng, cần có giải pháp cả về quản lý lẫn về kỹ thuật. Trong đó, các giải pháp về quản lý như: Nâng cao nhận thức cộng đồng; xây dựng cơ chế, chính sách, quy hoạch vùng; quản lý, khai thác rừng ngập mặn; tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc khai thác cát....
Giải pháp kỹ thuật gồm: Nhóm giải pháp công trình cứng và nhóm giải pháp mềm. Trong đó, nhóm giải pháp công trình cứng bao gồm: Kè biển, kè mỏ hàn, đê ngầm phá sóng, kè mỏ hàn kết hợp đê ngầm phá sóng. Nhóm giải pháp mềm bao gồm: Nuôi bãi, trồng rừng ngập mặn, và đụn cát. Trong 1 số trường hợp có thể kết hợp cả 2 nhóm giải pháp.
Hiện các nhóm giải pháp đã được thực hiện và đang tiếp tục triển khai trên các khu vực như bờ sông tại Cà Mau, kè bảo vệ bờ tại Vĩnh Hảo - Sóc Trăng; cấu kiện CT1 giảm sóng ở Gò Công - Tiền giang; kè bảo vệ bờ tại Gành Hào - Bạc Liêu,…
Theo GS.TS Trần Đình Hòa, trong giai đoạn vừa qua và trong ngắn hạn cần có các giải pháp – công nghệ mới trong phòng chống sạt lở. Tuy nhiên, về dài hạn cần có các nghiên cứu mang tính tổng thể nhằm chủ động dự báo, cảnh báo, thích ứng với vấn đề sạt lở trên hệ thống sông, kênh (bảo vệ các khu vực quan trọng) và chủ động bảo vệ các khu vực bờ biển trọng yếu, chủ động quản lý, kiểm soát được rủi ro thiên tai.
Cụ thể như: Rà soát toàn bộ không gian quy hoạch đô thị, nông thôn có liên quan đến xói lở sông, kênh và bờ biển, theo hướng: Khu vực ven sông lớn, trục chính, từng bước bố trí lại dân cư, có đất cho bãi sông, đường, đê (cho nâng cấp sau này). Quản lý chặt chẽ đất đai, hành lang ven sông, kênh rạch. Chống xâm lấn kênh rạch, đặc biệt nơi có nguy cơ sạt lở, các tuyến tiêu thoát quan trọng.
Bên cạnh đó, quản lý các khu vùng đệm đới bờ biển (rừng, hạ tầng); tăng cường giám sát, cảnh báo, di dời dân cư, cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp cung cấp cát xây dựng và san lấp, các loại vật liệu thay thế.
Ngoài ra, cần tăng cường liên kết vùng trong phòng chống sạt lở. Các quốc gia phải hợp tác chặt chẽ với nhau trong quản lý, khai thác nguồn nước sông Mekong.
Cần tiếp cận tổng thể, toàn diện với chiến lược dài hạn trong nghiên cứu thiên tai
Tại Hội thảo, PGS.TS. Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam cho rằng, cần tiếp cận tổng thể, toàn diện với chiến lược dài hạn trong nghiên cứu thiên tai, tránh dàn trải. Việc tổ chức thực hiện các nghiên cứu thiên tai cần theo cách tiếp cận từ khái quát đến chi tiết, từ quy mô quốc gia, đến vùng miền, cấp huyện, khu dân cư, công trình với các cách tiếp cận, hệ phương pháp và mục tiêu khác nhau tương ứng với từng quy mô. Tăng cường vai trò phối hợp của các bộ, ngành: KH&CN, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam; sự phối hợp giữa các chương trình khoa học, công nghệ trọng điểm và sự phối hợp liên ngành và đa ngành của các chuyên môn khoa học trong nghiên cứu thiên tai.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang cũng đồng tình với ý kiến của các nhà khoa học "tai biến địa chất ngày càng trầm trọng và phức tạp, ảnh hưởng lớn đến kinh tế, an sinh xã hội". Vì vậy cần có các nghiên cứu chuyên sâu hơn, toàn diện, bao quát, liên tục và liên ngành; bố trí kinh phí dự phòng cho các nhiệm vụ đột xuất.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang cũng mong muốn các bộ, ngành, ban quản lý chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu chủ động đặt hàng, các nhà khoa học đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu nhằm giảm thiểu thiệt hại do các tai biến thiên nhiên tại vùng ĐBSCL và Tây Nguyên cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Theo baochinhphu.vn
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình vừa ký ban hành Kế hoạch số 141/KH-BCĐTKNQ18, ngày 06/12/2024 kế hoạch định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ.